Hiện công việc update tin cho site quá lớn và nặng nề.Nên 4Men+... hiện đang tuyển 3 webmaster... Yêu cầu chủ yếu là:
1.Có hiểu biết về web,HTML
2.Có thời gian online dài
3.Có hiểu biết về xu hướng của Nam giới
4.Có thể thu thập thông tin nhanh :D
Nếu bạn tham gia thì email đến địa chỉ: bizyvu@gmail.com nhé.

Simon Cowell: 'Quái vật' của những cuộc thi

Ông bị gọi là kẻ thô lỗ, thích chọc tức người khác, kiêu ngạo, tự đắc, hợm hĩnh và bần tiện. Nhưng Simon Cowell, ông lớn trong ngành công nghiệp âm nhạc, người đứng sau 30 bản single đỉnh cao lại khẳng định ông không bao giờ có ác ý trong những lời nói của mình.

Ông thực sự tin rằng mình đang giúp đỡ những ca sĩ có khát khao hiểu rằng họ không có tài năng. “Tất cả những gì chúng ta đang làm là nói cho những người không có cơ hội ở dưới địa ngục hiểu rằng họ không có cơ hội ở địa ngục”.

Vì những lời nói khó nghe sẵn sàng làm bẽ mặt người khác, Cowell còn nổi tiếng hơn cả những ngôi sao mà ông tạo ra. Nhưng chính cá tính này đã giúp American Idol trở thành một hiện tượng văn hoá.

Cowell đứng đầu một tổ chức đầy quyền lực trong làng công nghệ đa truyền thông, với các công ty thu âm cũng như sản xuất phim và chương trình truyền hình lấy cảm hứng từ chính xu hướng thực tế thông qua quá trình tạo ra rất nhiều cuộc thi tìm kiếm tài năng âm nhạc quốc tế. Đây quả thực là thành tích đáng nể cho một người chưa tốt nghiệp phổ thông trung học.

Kiếm tiền theo cách của mình

Sinh năm 1959 tại Brighton, nước Anh, Cowell nhận thức ngay từ thời trẻ rằng ông đam mê kiếm tiền. Cha ông, Eric Cowell, một thanh tra chất lượng, luôn răn dạy con trai hãy kiếm tiền bằng cách riêng của mình.

Cowell cũng hiểu rằng ông không có năng khiếu học hành và ở tuổi 16, ông bỏ học để đi theo con đường riêng đầy khó khăn của mình, làm hàng loạt công việc “cấp thấp” như hầu bàn hay thư ký ghi chép trong cửa hàng.

Lần đầu tiên ông thực sự bước chân vào làng giải trí là năm 17 tuổi với chân chạy việc trong seri chương trình phiêu lưu “Sự trở về của Saint”.

Sự nghiệp của người cha Eric Cowell ngày một đi lên và ông trở thành nhà quản lý của nhãn hiệu ghi âm EMI. Với vị trí này ông đã giúp con trai được nhận vào làm ở vị trí thấp nhất trong phòng đưa thư của công ty. Làm việc chăm chỉ và được ưu tiên vì cha làm lãnh đạo đã tạo đà cho sự thăng tiến của Cowell lên vị trí trợ lý A&R và cuối cùng là vị trí trong phòng xuất bản đĩa nhạc của công ty.

Cowell rời EMI để thành lập công ty riêng, nhưng khi dự án xấu số đổ bể chỉ trong vòng một năm, ông tới làm việc cho nhãn hiệu thu âm nhạc pop Fanfare Records.

Cowell đã tạo nên danh tiếng kinh doanh âm nhạc quan trọng ở Fanfare, và trong tám năm gắn bó với công ty, ông chính là cây cầu nuôi dưỡng và phát triển dòng nhạc với hàng loạt các bản hit, bao gồm ca khúc đỉnh cao “So Macho” do Sinitta thể hiện, giành vị trí số 2 trong nhiều bảng xếp hạng và bán được hơn một triệu bản.

Khi Fanfare gặp khó khăn về tài chính năm 1989, Cowell trở thành đại diện A&R của nhãn hiệu thu âm BMG. Ông bắt đầu sản xuất các bản thu âm cho chương trình truyền hình, bao gồm những bản rất thành công như “Power Rangers” năm 1993, "Teletubbies" (BBC, 1997-2001).

Tìm tài năng âm nhạc không bằng cách khen ngợi

Khi đã là một nhân vật nổi tiếng trong ngành kinh doanh âm nhạc và được nể trọng vì khả năng tạo các bản thu âm đỉnh cao, Cowell bắt đầu quan tâm tới triển vọng của một chương trình truyền hình nguyên bản đang nổi lên - “Pop Idol” (2001-2002). Ông và đối tác kinh doanh Simon Fuller đã đưa ý tưởng về một cuộc thi lựa chọn tài năng âm nhạc tiến xa thêm một bước nữa, cho phép khán giả lựa chọn thí sinh họ yêu thích.

Cowell giữ vai trò giám khảo chuyên đánh giá, nhận xét các thí sinh, đồng thời cũng là "đao phủ" của họ: những lời nói chua cay nghiệt ngã của ông đã biến cuộc thi âm nhạc thành công trở thành một chương trình truyền hình chỉ trích cá nhân ở bậc cao nhất. Nhưng những đánh giá của ông đều được thừa nhận là chân thành và không hề sai lầm. Nhãn hiệu S-Records của Simon đã xuất bản sản phẩm của hai người vào chung kết cuộc thi. Ngay lập tức ông bán một phần đáng kể nhãn hiệu của mình cho BMG và trở thành một triệu phú trong chốc lát.

Fox cũng đánh hơi được tiềm năng khổng lồ và mời đội của Cowell tới thực hiện nhiệm vụ tái cơ cấu chương trình này cho khán giả Mỹ. American Idol xuất hiện lặng lẽ vào mùa hè năm 2002, nhưng đoạn cuối của cuộc thi vào mùa thu đã bất ngờ trở thành một chương trình đỉnh cao, thu hút sự quan tâm của đông đảo khán giả truyền hình.

Tất nhiên trong thành công của chương trình không thể không nhắc tới sức hấp dẫn của những “kẻ mơ mộng hão huyền giữa ban ngày”, khả năng của người sáng tạo ra chương trình và những người cầm cân nảy mực đánh giá người chơi – trong đó đặc biệt phải kể tới những đánh giá độc địa của Cowell.

Nổi tiếng là một kẻ hống hách, không biết xin lỗi, Cowell - với nghệ thuật phê bình “quái vật”, liên tục cãi vã với người dẫn chương trình Ryan Seacrest - rõ ràng biết rõ ông đang nói về cái gì.

Năm 2004, Cowell có thêm một thành công âm nhạc khác ngoài thương hiệu “Thần tượng” khi II Divo, một nhóm nhạc pop hát opera mà ông bắt tay gây dựng cách đó vài năm, dần thu được thành công trên thị trường âm nhạc.

Cùng năm đó, công ty Syco của Cowell tiếp tục cho ra đời cuộc thi tài năng quốc tế “X Factor”. Sau đó, Cowell cũng trở thành nhà sản xuất của chuỗi chương trình “Got Talent” quốc tế, trong đó Britain''s Got Talent xứng đáng là ví dụ điển hình của thành công và bất ngờ.

Nghệ thuật phê bình “quái vật”

Các mùa thi sôi nổi của American Idol ghi lại dấu ấn tuyết đối của vị giám khảo người Anh lập dị với những lời nhận xét chân thật đến tàn bạo. Tuyển tập những lời phê bình “quái chiêu” của Simon Cowell có lẽ là minh chứng rõ nét nhất có một tư duy tìm kiếm tài năng có một không hai:

“Khi cô bắt đầu hát, điều đầu tiên xẹt qua tâm trí tôi là âm thanh cô phát ra nghe giống như ai đó đang hát trên một chiếc tàu giữa biển khơi. Và đến nửa chừng bài hát, tôi đã tưởng tượng rằng con tàu đang chìm" - lời nhận xét dành cho Ashley Hartman, sau màn trình diễn bán kết của cô ở mùa thi thứ 2 với ca khúc “Touch me in the morning”.

“Vẻ mặt của anh thật kinh hãi…và nhìn như thể anh đã bị cấm cung trong phòng ngủ cả tháng qua vậy - trông như một hồn ma, xanh xám. Anh có hiểu ý tôi định nói gì không? Anh cần một chút không khí trong lành đấy” - với Garrett Haley, sau màn trình diễn bán kết của mùa Idol thứ 7 với ca khúc “Breaking up is hard to do”.

“Thật giống như việc đặt hàng một chú chó giữ nhà nhưng lại nhận được một chú chó xù trong chiếc áo khoác da” - với Constantine Marous, sau màn trình diễn Top11 với bài hát “I think I love you” trong mùa thi thứ 4.

“Anh bạn thân mến, thân mến… Cuộc thi Olympics đang diễn ra… chà, hai người đằng trước anh chạy 100 mét trong 10 giây, còn anh chạy trong 5 phút. Đó chính là sự khác biệt” - với Jim Verraros, sau khi anh này trình bày bài “Easy” phiên bản của riêng anh trong Top 10 mùa thi đầu tiên.

“Giọng của cô nghe như Dolly Parton đang bị ngạt khí hê-li” - với Kristy Lee Cook, sau màn trình diễn trong Top 12 với bài hát “Eight days a week”, mùa thi thứ 7.

“Cô là một cô gái đẹp, nhưng trông cô rất xấu khi trình diễn” - với Heather Piccinini, sau màn trình diễn bán kết của cô với ca khúc “New attitude”.

“Nếu anh nghe thấy tiếng hét từ một phòng khách sạn ở Las Vegas, thì đó là nơi Barry Manilow (tác giả bài hát) đang xem chương trình này… Tôi có thể phần nào đồng ý với Randy (vị giám khảo nhận xét trước) rằng màn trình diễn phải có tính giải trí, nhưng tôi đang được chiêu đãi một bộ phim kinh dị. Anh biết đấy, đó là loại giải trí khác nhau” - với Bobby Bennett, sau màn trình diễn bán kết mùa thi thứ 5 với bài hát “Copacabana”.

“Bài hát nhắc tôi rằng mình đang ngồi ở một nơi khác, không phải trên sân khấu của American Idol, có lẽ đang ở một cuộc đua tài của những người chăn bò, cô vừa mới được trao vương miện nữ hoàng, và đây là bài hát trước khi cô ném thòng lọng tóm một con bò. Tôi nói nghiêm túc… Tất cả chỉ có thế thôi, Ashley. Thật… ngọt ngào. Như là Paula (vị giám khảo nữ duy nhất) cách đây nhiều năm từng như vậy” - với Ashley Thomas sau màn trình diễn bán kết của mùa thi thứ ba với bài “Crazy”.

Nhờ bị chê mới trưởng thành

Carrie Underwood - thần tượng âm nhạc Mỹ mùa thứ tư đã sống sót qua sự đánh giá khắt khe của ban giám khảo và đặc biệt là những lời phê bình của Simon Cowell - cho biết:

“Ông ấy luôn khá dễ chịu với tôi, và tôi nghĩ rằng thật là tuyệt khi có ai đó nói với bạn những lời chân thực, cho dù chúng có thể được nói ra theo một cách không dễ nghe. Tôi có thể nghĩ ra nhiều cách hay hơn để nói những điều mà ông ấy định nói với thí sinh dự thi, nhưng thật là tuyệt khi ông ấy có một ý kiến mạnh mẽ, cương quyết đến vậy, và ông ấy dám nói”.

David Cook, người giữ vị trí quán quân Thần tượng âm nhạc Mỹ năm 2008, cũng đồng tình với Carrie Underwood. Anh cho hay: “Trong vài tuần đầu tham gia chương trình, Simon và tôi không hề nhìn thẳng vào mắt nhau. Ngay khi tôi lùi lại một bước và nhận ra rằng những gì ông ấy nói thực sự mang tính xây dựng, tôi đã tiếp tục tiến bước tới đỉnh cao nhất của cuộc thi. Vì vậy nếu có ai đó hỏi tôi rằng ai là vị giám khảo ưa thích của tôi, tôi luôn trả lời thành thực rằng đó là Simon”.

Có vẻ như tình yêu khắc nghiệt không phải lúc nào cũng là một điều tồi tệ.

0 nhận xét:

Post a Comment